
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Đất vua – Chùa dân – Thành Hoàng làng”.
Nếu nói về lịch sử Đình làng, thì trước hết ta phải biết được sự hình thành của làng rồi mới phỏng đoán được thời điểm lập Đình, xây Chùa.
Theo lịch sử Hải Phòng đang lưu giữ tại nhà bảo tàng thành phố Hải Phòng và hương ước năm 1939 Làng Câu Đông, tổng Câu Thượng, huyện An Lão, tỉnh Kiến An của viện thông tin khoa học xã hội thuộc bộ Văn hoá – thể thao và du lịch thì Làng Câu Đông ta có từ thế kỷ thứ 16 (thời hậu Lê) (1601 - 1700).
Làng Câu Đông ta hình thành và sinh sống theo một dải đất kéo dài từ Quán Khải giáp xứ đồng Công đến xứ đò Cựu nay gọi là từ chân cầu vượt B49 và cống Xây đến khu đống cao gần khu chân cầu Tiên Cựu, Làng ta lúc đó gọi là Làng Cách Đông thuộc Tổng Câu Thượng, huyện Câu Lậu, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
Các dòng họ từ Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bắc Giang, Hưng Yên, Hải Dương di cư đến đây lập nghiệp thậm chí có cả những người làm chài, đáy cũng lên đây an cư, lập nghiệp lúc đó Làng chỉ có 2 họ Đào, 5 họ Nguyễn, 2 họ Vũ, 3 họ Đỗ, 2 họ Trần.
Về địa lý thì Làng ta có phía Đông giáp Quốc lộ số 10, phía Tây giáp Làng Cát Tiên, phía Nam giáp sông Văn Úc, phía Bắc giáp Làng Câu Hạ với tổng diện tích là: 89 ha.
Trải qua nhiều thế kỷ và nhiều thập niên, phương ngôn có câu: Đất thơm thì cò đậu. đúng như thế sơ khai chỉ có mấy dòng họ thôi, nhưng đến năm 2020 Làng Câu Đông đã có 52 dòng họ.
Năm 1948 Làng Cách Đông được đổi tên là Làng Câu Đông thuộc tổng Câu Thượng, huyện An lão, phủ Kiến Thuỵ, tỉnh Hải Dương.
Đến năm 1887 vào ngày 11 tháng 9 thì Hải Phòng tách khỏi Hải Dương thành 2 tỉnh Hải Phòng và Hải Dương và tỉnh Kiến An riêng.
Đến năm 1959 thì tỉnh Kiến An hợp nhất với Hải Phòng gọi là thành phố Hải Phòng và cho đến nay tên đầy đủ của Làng là: Làng Câu Đông, xã Quang Trung, huyện An lão, thành phố Hải Phòng.
Từ những năm sơ khai dân về sinh sống cũng chỉ có trồng lúa nước song Làng ta có khu bãi bồi ven sông Văn Úc chạy dài từ Cống Xây đến khu Tây Nam cạnh khu bãi của Làng Cát Tiên thì Làng ta lại thêm nghề trồng Cói và dệt chiếu.
Năm 1975 Miền Nam hoàn toàn giải phóng đất nước ta được thống nhất hai miền Nam Bắc thì nền công nghiệp nước ta ngày càng được phát triển, các công ty xí nghiệp được các nước trên thế giới đầu tư ngày càng nhiều, con em quê hương trước đó và đến khi nước nhà được độc lập thì được học hành nên nhiều người, nhiều thế hệ là cán bộ, là kỹ sư, bác sỹ, cấp uý, cấp tá trong quân đội và công an, là công nhân viên chức nhà nước và bây giờ đại đa số con em vào các công ty xí nghiệp làm việc, cho nên đời sống và vật chất của nhân dân được nâng cao, điều kiện kinh tế không còn khó khăn như trước nữa, nông thôn luôn được đổi mới, quê hương ngày càng khang trang, đẹp đẽ. Chính vì vậy ta càng tri ân công đức của ông cha, tri ân sự tre chở của các đấng linh thiêng đã bao đời nay Làng ta được êm ấm, hạnh phúc, mọi nhà được bình an.
Tương truyền vào những năm Làng ta mới sơ khai thì có hai vị tướng của triều đình phải đi dẹp loạn tại khu vực sông Văn Úc để an dân, Làng ta nằm trong khu vực dẹp loạn của hai vị tướng, hai ngài đánh tan giặc tại khu vực cống Xây bây giờ, và sau đó hai ngài được Triều Đình cấp Kính Thành Đại Vương là duệ trí thông minh chính trực rực bảo chung hưng trí, phong long sắc Cung Cộng Đại Vương là bảo quốc an dân, sau khi hai vị tướng thác đi được di quan về triều đình, và từ đó Làng ta được an lành và tôn vinh hai ngài là Thành Hoàng của Làng. Lệ Làng lấy hai ngày giỗ của hai ngài vào ngày mùng tám tháng hai và ngày mùng hai tháng chạp để cúng tế tri ân các ngài tại Đình Làng.

Long ngai Thành Hoàng
Đình là nơi thờ Đức Thành Hoàng là nơi văn hoá tâm linh và cũng là nơi tụ họp của dân Làng trong các ngày giỗ, ngày Tết và lễ hội của cả Làng.
Từ xa xưa và thời phong kiến thì Đình Làng còn là trung tâm Chính trị, xã hội. Các vị chức sắc trong Làng, trong xã thường đến để nghị sự và bàn bạc công việc. Đặc biệt Đình Làng là nơi văn hoá tâm linh theo hướng thiện, vào Đình là cầu cho Quốc thái, dân an, cầu cho mưa thuận gió hoà và cầu cho mọi nhà hạnh phúc. Chính vì thế Đình còn là linh hồn của cả Làng, là chốn nơi để mọi người đi xa về gần đều đến Đình Làng để cầu phúc.
Hình ảnh Đình Làng quê là cây Đa, Giếng nước, sân Đình, ai đi xa mấy cũng nhớ về cội nguồn, quê hương với nghĩa tình làng xóm.
Khi Làng ta tôn vinh hai ngài Kính Thành Đại Vương và Cung Cộng Đại Vương là Thành Hoàng của Làng thì ngay trên mảnh đất (gần khu cống Xây ngày nay) Làng ta đã xây dựng một ngôi Chùa và về xứ đò Cựu (khu vực Miếu Quán Cầm ở Cổng Đông bây giờ) xây một ngôi Đình để thờ hai vị Thành Hoàng. Do quá trình lịch sử đất nước ta vẫn còn giặc ngoại xâm, chế độ phong kiến rất hà khắc, các tệ nạn xã hội ngày càng nổi lên, cho nên Đình, Chùa của Làng phải di dời cách xa quốc lộ khoảng hơn một ki lô mét để được yên ổn hơn.
Khi đó Làng mới chuyển Chùa về phía Bắc làng cho đến nay (bây giờ gọi là Đồng Hống) và Đình chuyển về ngự tại khu đất hiện nay.
Từ năm 1848 đến năm 1854 Làng ta đồng thời xây dựng lại cả Đình và Chùa (theo văn bia được dịch lại và danh sách công đức xây dựng Chùa tại Bảo tàng thành phố Hải Phòng).
Đình làm hình chữ Đinh, có một gian vọng cung và năm gian ngoài kết cấu tường xây bằng gạch nung, vữa xây là cát và mật mía, mái lợp ngói mũi, cột, kèo, xà, rui đều bằng gỗ Lim, kiểu chữ công, con chồng đấu sen, tiền tầu hậu bẩy, Đình quay hướng Tây nên người ta gọi là Đình Tây, thờ hai vị Đức Thành Hoàng đề hiệu là Kính Thành Đại Vương và Cung Cộng Đại Vương. Làng cũng thành lập ra Hội đồng kỳ mục, như hiện nay Làng vẫn thành lập ra Ban trị sự Đình Làng thuộc Ban quản lý văn hoá tâm linh để hương đăng và phục vụ cho ngày mồng một hôm rằm, giỗ Tết và các lễ hội của Làng. Cho đến bây giờ ta vẫn áp dụng theo nề lối của các cụ xưa là vẫn có ba giáp để sắp lễ cúng vào các ngày mùng một hôm rằm hàng tháng.
Đình tây ta làm nhìn sang Cát Tiên. Sau đó Làng Cát Tiên có nhờ một người thầy địa lý người Tàu đến xem hộ thì ngôi Đình của Làng ta thì ngôi Đình xây dựng trên mảnh đất bề thế, nhưng người thầy có nói ngôi Đình nhìn về hướng Tây thì bị án ngữ vì ngôi làng nên không được đẹp, do vậy Làng ta phải xây tiếp một ngôi Đình khác nữa quay hướng Đông vào năm 1922, nằm trên dải đất mà nhà cụ Nguyễn Văn Nhịn – sinh năm 1923 hiện đang sinh sống tại mảnh đất này.
Cùng năm đấy sau khi Đình Đông cất dựng, tổ thợ ăn liên hoan mừng ngày cất nóc Đình, tổ thợ cùng dân làng liên hoan, do lấu nướng bất cẩn nên bị cháy cả bếp lẫn lán ở của thợ, từ đó có tên gọi thêm là Đình Cháy, dịch theo cuốn (Quang Trung – miền đất con người) trang 11 được lưu giữ tại sở nội vụ thành phố Hải Phòng, sau đó Làng dựng một điếm canh ngay trên khu lán của thợ bị cháy, bây giờ gọi là Miếu Quán Cháy.
Đến năm 1946 khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn quyết liệt dân Làng phải hy sinh phá dỡ Đình Đông để tiêu thổ kháng chiến ủng hộ Việt Minh, không cho quân Pháp lấy Đình để làm nơi đóng quân để đốt phá làng mạc và giết hại dân làng.
Nhưng sau đó giặc pháp đô hộ đập phá và đốt cháy cả làng, chỉ may mắn sót lại hai ngôi nhà (nhà bà Ngôn và nhà ông Lược) Đình Tây cũng bị thiêu rụi, các cụ vội chạy được toàn bộ Phả cập, sắc phong và tài liệu của Đình gửi vào lầu nhà cụ Nguyễn Văn Sái, nhưng ngay lập tức nhà cụ và lầu nhà cụ cũng bị địch đốt cháy, do vậy toàn bộ tài liệu, sắc phong, phả cập cũng bị cháy hết, nên từ đó Đình làng không còn tài liệu gì được lưu trữ.

Cổ vật còn lưu giữ lại

Nhà bia

Đến năm 1948 Đình Tây lại được tái dựng lại lần thứ ba trên nền đất cũ và theo hướng Tây cũ.
Năm 1956 Đình Tây lại là trung tâm văn hoá của Làng làm nơi tố tụng địa chủ, phú nông trong cuộc cải cách ruộng đất, năm 1957 tổ chức phong trào chống giặc đói và phong trào bình dân học vụ, phong trào diệt dốt và từ đấy cũng là nơi nhờ làm trường học dạy các lớp học phổ thông.
Năm 1974 cả nước đang dốc sức lực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Miền Bắc với khẩu hiệu: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” tất cả cho tiền tuyến để giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, thì đồng thời cũng là thời điểm nhà nước ta chống mê tín dị đoan và hợp nhất các tỉnh thành và các hợp tác xã nông nghiệp, nên làng ta cũng hợp nhất hợp tác xã nông nghiệp từ năm 1974, Đình Làng một lần nữa lại phải tháo dỡ lấy gỗ làm khung thảm để hợp tác xã mở rộng ngành nghề. Bát hương cổ thời nhà Lê, cỗ ỷ, hoành phi từ năm Đinh Sửu thời vua Bảo Đại được đem ra Chùa để, chỉ có hai bộ chấp kích thì đem lên Đình Câu Hạ A gửi và đến nay hai bộ chấp khích ấy dân làng Câu Hạ A vẫn dùng để thờ ở Đình Làng của làng, suốt một thời gian dài đến hàng chục năm làng ta không có nơi thờ cúng Thành Hoàng Làng.
Đến năm 1984 – 1986 các cụ bô lão trong làng tập trung góp tre, nứa, gỗ lạt cũng phải hai, ba lần không dựng lên được vì cứ dựng lên đêm thì ban ngày cán bộ xã lại yêu cầu tháo dỡ vì còn ảnh hưởng của thời kỳ chống mê tín dị đoan và cuối cùng với quyết tâm của các cụ và ông Vũ Văn Phường lấy danh nghĩa là ông Phường đắp lên làm một gian bếp, nhưng nói dấu vậy thôi chứ thực chất là dựng nên một gian vọng cung của Đình bằng tường đất, mái tre và lợp rạ và cũng theo hướng Tây cũ để thờ Thành Hoàng.
Đến năm 1994 nhà nước có pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, đến ngày 18/6/2004 được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hội khoá 11 thông qua và Chủ nước Trần Đức Lương ký và Pháp lệnh có hiệu lực thì cùng thời gian đó Hội người cao tuổi của Làng đã đi vận động dân làng góp công, góp của xây dựng một gian vọng cung, cửa mở hướng Tây xây gạch, xà gồ, rui, mè đều được làm từ gỗ bạch đàn lợp ngói xi măng tự đóng thủ công.
Đến năm 1996 Làng huy động tiền của công sức xây tiếp ba gian ngoài nối với một gian vọng cung, xà gồ, cầu phong, ly tô đều bằng gỗ bạch đàn và lợp ngói xi măng cụ Đào Viết Giám đặt nóc với diện tích cả vọng cung là 172 m2 sát cửa Đình là lối đi của xóm rộng sáu mét, làng làm mái tôn che chắn để rộng địa điểm mỗi khi việc làng, tiếp đó là khu vườn (trước kia là vườn và hồ Đình) nhưng sau đó hợp tác xã chia đất cho gia đình cụ Vũ Văn Hiểu, sau cụ để lại cho cháu sử dụng là anh Vũ Văn Soạn vợ là Huê, trong vọng cung đã rước bát hương từ Chùa về để thờ, hai bộ ỷ, ngoài gian trước của vọng cung có mang hoành phi về treo.
Thấy đồ thờ còn sơ sài cụ Trần Văn Long là con em của Làng nhưng đi làm ăn xa quê vào Miền Nam từ những năm 1955, có về thăm quê và cụ đã tạc pho tượng Thần Hoàng cúng vào Đình, đồng thời gia đình ông Nguyễn Văn Lõng cũng là con em của làng đang sinh sống ở Hải Phòng cũng đã tạc một pho tượng Thành Hoàng nữa để công đức về Đình làng, ông Nguyễn Văn Nhờ cũng cúng một đôi câu đối với hai vế đối: “HƯƠNG ĐĂNG TIỂU TRIỀU NHẤT TÂM TÔN NHỊ VỊ - QUỐC DÂN HỮU ĐỨC VẠN SỰ ĐẠT TAM ĐA”
Năm 2009 mái vọng cung bị hư hỏng, dột Hội người cao tuổi tháo dỡ mái, mua sắt, xi măng về làm bằng bê tông cốt thép.
Năm 2012 ba gian ngoài của Đình cũng xuống cấp một số xà gồ bị mọt, gãy nguy cơ sập mái, Làng đã họp bàn tu sửa phần mái, sau đó đi vận động được tám mươi triệu đồng, nhưng không thực hiện được vì kinh phí còn thiếu nhiều. cuối năm 2012 cấp uỷ mới được bầu lại, lãnh đạo làng được củng cố do ông Nguyễn Minh Cảnh làm trưởng Làng, chi bộ có Nghị quyết, Lãnh đạo Làng có chủ trương có việc rất quan trọng và khó khăn là quyết tâm xây dựng tái tạo Đình làng để ngang tầm với các Làng trong xã và khu vực. Ban lãnh đạo Làng đã mời các vị lãnh đạo qua các thời kỳ, các ban, ngành, đoàn thể và các ông bà có tâm huyết và các cụ bô lão trong làng tới Đình để họp bàn và thống nhất cao việc xây dựng tái tạo Đình làng. Ban chỉ đạo đã làm lễ cáo yết Thành Hoàng để tháo dỡ và làm mặt bằng, chờ ngày động thổ, khuôn viên Đình thì hẹp chiều dài không đủ cho năm gian Đình, làng ta được sự hợp tác của gia đình bà Hà Thị Lựu đã đổi đất cho làng để làng lấy ao cạnh Đình khoảng hai mươi mét vuông để kéo dài đủ năm gian Đình như bây giờ.
Đúng 8 giờ 15 phút ngày Canh Dần (ngày 17), tháng Tân Hợi (tháng 8), năm Quý Tỵ (năm 2013) lễ động thổ Đình Làng được khai mạc long trọng và thành kính nhất, với sự tham dự của Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các ban, ngành, đoàn thể của xã Quang Trung, Lãnh đạo sở văn hóa – thông tin, sở khoa học và công nghệ thành phố Hải Phòng, Công ty đường bộ Hải Phòng, các doanh nghiệp, xí nghiệp đang đóng chân trên địa bàn làng, các trường học, đại diện các làng trong toàn xã, con em xa quê và bà con dân làng đến dự đông đủ.
Đình Làng xây dựng từ tháng tám năm 2013 đến tháng tám năm 2015 thì hoàn thành vào ngày Bính Tuất (ngày 02), tháng Tân Sửu (tháng 12), năm Bính Thân (năm 2016) Làng tổ chức cắt băng khánh thành và cúng giỗ Thành Hoàng Làng, cũng nhân dịp này con dân, cháu làng góp công, góp của lại mua thêm được đất để đổi cho gia đình anh Vũ Văn Soạn, lên đất Đình hiện nay cả sân và nhà họp của Ban quản lý văn hóa tâm linh tổng khuôn viên của Đình là 796 m2 gấp năm đến sáu lần so với trước.
Đình làng được tái tạo trên nền đất cũ và vẫn theo hướng Tây kết cấu toàn bộ bằng bê tông cốt thép, cũng làm theo hình chữ ĐINH, có một gian vọng cung và năm gian ngoài trên nóc Đình là lưỡng Long chầu Nguyệt, Nóc Đình được đề mười năm chữ vàng:

Nhang án
Quả là một công trình, kiến trúc lớn của Làng được hoàn thành bởi sự lãnh đạo của Cấp ủy, Lãnh đạo làng, con dân, cháu làng nhất tâm, góp nhiều công của để được một chốn tâm linh nguy nga, tráng lệ như ngày hôm nay, bà con dân làng và các thế hệ mai sau luôn có trách nhiệm gìn giữ, tu bổ để chốn linh thiêng luôn được khang trang và bề thế./.